Tìm kiếm theo cụm từ
Chi tiết đề tài

Thông tin chung

Tên đề tài (*) "Nghiên cứu khả năng thấm và giữ nước tiềm tàng của đất rừng nhằm góp phần hạn chế xói mòn và dự báo lũ rừng cho huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên"
Cơ quan chủ trì Đại học Thái Nguyên
Cơ quan thực hiện Đại học Nông Lâm
Loại đề tài Đề tài cấp Bộ
Lĩnh vực nghiên cứu Tài nguyên-Môi trường
Chủ nhiệm(*) Đỗ Thị Lan
Ngày bắt đầu 01/2010
Ngày kết thúc 12/2011

Tổng quan

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

1.1.1. Một số khái niệm liên quan

- “Khả năng thấm nước của đất” là khả năng lưu giữ lại dòng chảy bề mặt và biến chúng thành dòng chảy ngầm trong lòng đất (Vũ Thị Quỳnh Nga, 2009) [16].

- “Tốc độ thấm của đất ” biểu thị bằng mm/phút là tốc độ nước từ mặt đất đi vào trong đất. Nếu trên mặt đất có lớp nước đọng, nước sẽ thấm xuống đất theo tốc độ thấm tiềm năng. Tốc độ thấm là đặc trưng quan trọng nhất về vận động của nước dưới đất trong môi trường lỗ hổng (Vũ Thị Quỳnh Nga, 2009) [16].

- “ Tốc độ thấm nước ban đầu” (mm/phút) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh đặc trưng thấm nước của đất rừng. Tốc độ thấm nước khởi đầu được tính là giá trị trung bình của tốc độ thấm trung bình trong 5 phút đầu tiên (Vũ Thị Quỳnh Nga, 2009) [16].

- “ Tốc độ thấm nước ổn định của đất” (mm/phút) là tốc độ thấm khi đất được cung cấp đủ nước và tầng đất mặt đã bão hòa nước. Khi đất đạt đến tốc độ thấm ổn định và tốc độ thấm nhỏ hơn cường độ mưa, dòng chảy bề mặt sẽ được tạo ra cùng với việc cuốn trôi vật chất xói mòn (Vũ Thị Quỳnh Nga, 2009) [14].

- “ Quá trình thấm nước ” là quá trình nước từ mặt đất thâm nhập vào trong đất. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ thấm bao gồm điều kiện trên mặt đất và lớp phủ thực vật, tính chất của đất như độ xốp, kết cấu đất, độ ẩm đất (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10].

- “ Phẫu diện đất” là mặt cắt thẳng đứng từ bề mặt đất xuống tầng đá mẹ. Các loại đất khác có độ dày và đặc trưng phẫu diện khác nhau. Phẫu diện đất là hình thái biểu hiện bên ngoài phản ánh quá trình hình thành, phát triển và tính chất của đất (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

Một phẫu diện đất điển hình thường gồm các tầng đất sau: Tầng thảm mục, tầng mùn (tầng rửa trôi), tầng tích tụ, tầng mẫu chất, tầng đá mẹ.

+ Tầng thảm mục nằm trên mặt đất. Tầng này được kí hiệu là Ao (có sách kí hiệu là O), ở đây nó chứa những cành lá, xác thực vật rơi rụng. Tầng này cũng được chia nhỏ hơn A01, A02 và A03. Tầng A01 chứa những chất hữu cơ chưa phân giải. Tầng A02 chứa những chất hữu cơ đã bị phân giải một phần, A03 chứa những chất hữu cơ đã phân giải mạnh, một phần đã thành mùn.

Tầng thảm mục chỉ xuất hiện ở đất dưới rừng, dưới đồng cỏ, nơi mà chất hữu cơ được trả lại cho đất khá nhiều. Mặt khác sự có mặt của tầng này còn liên quan tới điều kiện phân giải các hợp chất hữu cơ, bản chất của các chất hữu cơ. Những nơi điều kiện phân giải các hợp chất hữu cơ thuận lợi, tầng này hoặc không xuất hiện, hoặc mỏng, không điển hình (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

+ Tầng mùn (tầng rửa trôi): ký hiệu là A.

Tại đây, các hợp chất mùn được hình thành. Đất thường màu đen, nâu đen. Đất thường có kết cấu viên, tơi xốp, giầu dinh dưỡng.Tuy nhiên dưới tác dụng của nước nó cũng là tầng bị rửa trôi.Phần lớn các loại vi sinh vật đất đều tập trung ở tầng này. Trong tầng A lại có thể xuất hiện những tầng khác nhau: A1, A2, A3.

++ A­1 là tầng tích luỹ mùn nhiều nhất, màu đen nhất. Tại đây các hợp chất hữu cơ được phân giải, tổng hợp để tạo nên các hợp chất mùn trong đất. Đất thường có kết cấu viên, tơi xốp, giàu dinh dưỡng.

++ A2 là tầng rửa trôi mạnh nhất. Tại đây các chất dinh dưỡng và hợp chất mùn bị phá huỷ và rửa trôi xuống các tầng sâu. Bởi vậy, hàm lượng chất dinh dưỡng và mùn ở đây thấp. Thạch anh chiếm tỷ lệ lớn trong các thành phần khoáng. Nó thường có màu sáng hơn so với các tầng khác. Tầng A2 đặc trưng cho đất Potdon của miền khô, lạnh. Tuy nhiên theo Fritland thì đất Việt nam thường có tầng A2 không điển hình (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

++ Tầng A3 là tầng chuyển tiếp đến tầng B.

+ Tầng tích tụ: ký hiệu là B

Những chất bị rửa trôi từ tầng trên xuống, phần lớn được tích luỹ tại đây, đặc biệt là sét. Bởi vậy hàm lượng sét ở tầng này cao hơn hẳn so với các tầng khác do đó nó thường bị chặt, khó thấm nước. Tầng B càng phát triển, chứng tỏ đất có tuổi càng cao.

Tầng B lại có thể chia nhỏ hơn thành B1, B2, B3:

+ Tầng B1 là một phần của tầng A chuyển tiếp đến tầng B.

+ Tầng B2 là tầng tích tụ điển hình.

+ Tầng B3 là phần chuyển tiếp của tầng B đến tầng C.

Tầng A và B là phần điển hình của đất, nó tạo nên độ dày của đất. Độ dày tầng đất được tính từ trên mặt đất xuống đến hết tầng B.

+ Tầng C được gọi là tầng mẫu chất, nó được hình thành từ sự phong hoá đá và khoáng ban đầu.

+Cuối cùng là tầng đá mẹ ký hiệu là D

1.1.2. Cơ sở khoa học

1.1.2.1. Khái niệm rừng và các công trình nghiên cứu ảnh hưởng của rừng

Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu. Quần xã sinh vật phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành phần trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác (Phạm Văn Điển, 2009) [4].

Ngay từ thở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng. Rừng là nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học thuyết về rừng.

a. Ảnh hưởng của rừng đến đến số lượng nước trong quy mô lâm phần

Nghiên cứu về khả năng giữ nước của lâm phần rừng trên thế giới đã thu được nhiều thành quả, trong đó đáng chú ý là những thành quả liên quan đến việc định hướng các thành phần cân bằng nước trong hệ sinh thái rừng và xác định, dự báo xói mòn đất.

* Lượng nước mưa giữ lại trên tán rừng

Lượng nước mưa giữ lại trên tán là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng giữ nước của rừng. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đề cho thấy tỷ lệ lượng nước mưa giữ trên tán rừng lá kim ôn đới chiếm 20 - 40% (Lương Lễ Tiên và Lý Á Quang, 1991) [21].

Những nghiên cứu về tỷ lệ lượng nước mưa ngăn bởi tán rừng ở các kiểu thảm thực vật rừng tương ứng với các đới khí hậu khác nhau ở Trung Quốc cho thấy, phạm vi biến động của tỷ lệ lượng nước mưa bị ngăn giữ lại trong khoảng 11,4 - 34,3%, hệ số biến động 6,68 - 55,05%, trong đó tỷ lệ nước mưa giữ lại trên tán của rừng lá kim thường xanh á nhiệt đới, trên núi cao ở miền Tây là lớn nhất, của rừng hỗn giao cây lá rộng thường xanh với cây lá rộng rụng lá á nhiệt đới, miền núi là nhỏ nhất (Vu Chí Dân, Christoph Peisert, Dư Tân Hiểu, 2001) [1] .

Lượng nước mưa giữ lại bởi tán rừng phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó bao gồm loài cây, tuổi rừng, mật độ lâm phần, cấu trúc của tán rừng, tần suất mưa, cường độ mưa, thời gian mưa. Cũng giống như hệ sinh thái và quá trình thủy văn, lượng nước mưa ngăn bởi tán rừng cũng biến động theo không gian và thời gian.

* Lượng nước chảy men thân cây

Nhiều công trình nghiên cứ về lượng nước chảy men thân trên thế giới đều cho kết quả là chúng thường chiếm từ 1 - 3% so với tổng lượng mưa. Đây là một tỷ lệ thấp so với các thành phần cân bằng nước khác. Nhiều nhà thủy văn rừng nhận xét rằng, trong không ít trường hợp lượng nước chảy men thân của cây có đường kính lớn lại ít hơn lượng nước chảy men thân của cây có đường kính bé. Điều này có thể do sự khác nhau bởi cách phân cành hoặc do lượng nước rơi từ tán lá của cây ở tầng trên xuống cây ở tần dưới không như nhau (Bruijnzeel L.A, 1990) [25].

* Lượng nước hút giữ bởi vật rơi rụng trong rừng

Vật rơi rụng có khả năng giữ nước tương đối lớn, nên có tác dụng bổ sung nước cho đất và cung cấp nước cho thực vật. Ngoài ra, do vật rơi rụng có những lỗ hổng lớn và nhiều hơn so với đất, nên lượng nước ngăn giữ lại bởi vật rơi rụng dễ dàng bốc hơi (Vu Chí Dân, Vương Lễ Tiến, 2001) [2] .

* Lượng nước chảy trên bề mặt đất

Nhìn chung, đất rừng tự nhiên có khả năng thấm nước cao và ít khi xuất hiện dòng chảy bề mặt. Tuy nhiên, khi rừng bị chặt hạ trở nên thưa thớt và độ dốc mặt đất lớn, có thể tạo ra nhiều lượng nước chảy trên bề mặt (Phạm Văn Điển, 2009) [4].

Thủy văn học truyền thống đã phát triển lý luận về dòng chảy trên mặt đất của Horton vào những năm 30 và 40 của thế kỷ 20 để nghiên cứu cơ chế hình thành dòng chảy trên bề mặt đất. Lý luận này chiếm địa vị thống trị trong lĩnh vực thủy văn học công trình kéo dài suốt khoảng 30 năm đã dựa vào những quan trắc thực nghiệm và chỉ ra rằng trong hoàn cảnh rừng, cường độ mưa rất ít khi lớn hơn tốc độ thấm nước tiềm tàng của đất, đã nêu ra khung lý luận về động thái hình thành dòng chảy của mưa rào, sau đó đã triển khai nhiều nghiên cứu thực nghiệm nhằm tìm hiểu cơ chế hình thành dòng chảy do mưa gây ra, chủ yếu trên những khu vực ôn đới ẩm ướt của châu Âu và ở Mỹ (Bonell M, 1993) [24].

* Bốc hơi và thoát hơi nước

Bốc hơi và thoát hơi nước là do các quá trình trao đổi bức xạ, vận chuyển của hơi nước và sinh trưởng của thực vật tạo nên. Phương pháp đo lường chuẩn xác nhất là sử dụng thiết bị đo bốc hơi và thoát hơi nước Lysimeter, nhưng khả năng ứng dụng của nó còn hạn chế. Các phương pháp được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu bốc hơi và thoát hơi nước của rừng là phương pháp thủy văn học và phương pháp lý thực vật học (Phạm Văn Điển, 2009) [4].

Phương pháp thủy văn học dựa vào phương trình cân bằng lượng nước trong hệ thống, thông qua đo lường lượng mưa, lượng nước thấm xuống các tầng đất sâu, lượng nước chảy trên mặt đất và biến đổi động thái của nước trong đất, để tính toán lượng nước bốc hơi và thoát hơi của hệ thống (Dư Tân Hiểu, 1991) [8].

Phương pháp sinh lý thực vật học chủ yếu xác định lượng nước thoát hơi của thực vật, trong đó bao gồm phương pháp xung nhiệt mạch dẫn (vận chuyển của nhựa cây), phương pháp nguyên tố đồng vị phóng xạ, phương pháp kim châm khí khổng và phương pháp buồng thông gió, phương pháp cân nhanh của Ivanov… Sử dụng phương pháp sinh lý thực vật học để xác định lượng nước thoát hơi của một cây và suy luận lượng nước tiêu hao của cả lâm phần chính là mấu chốt của vấn đề và cũng là một bước then chốt để thiếp lập mối quan hệ giữa sinh lý thực vật học với thủy văn rừng.

* Quá trình thấm và giữ nước của đất rừng

Sự thấm nước của đất là một trong những vấn đề được nghiên cứu sâu rộng trong lĩnh vực thủy văn học. Từ lý luận phát sinh dòng chảy mặt, sự thấm nước của đất là chỉ thị cho khả năng của tầng điều tiết quan trọng nhất trong tuần hoàn thủy văn rừng, sau khi nước mưa đã đi qua bầu không khí, lớp thảm thực vật và vật rơi rụng che phủ. Sự thấm nước của đất có tác dụng rất quan trọng trong việc hình thành cơ chế phát sinh dòng chảy. Có nhiều mô hình thấm nước của đất dựa vào việc đơn giản hóa quá trình vật lý và các mô hình kinh nghiệm, trong đó bao gồm mô hình Green - Ampt (1911), mô hình Horton (1933, 1945), mô hình Philip (1957, 1969) và mô hình cải tiến của nó là mô hình Smith R E - Parlange J Y, (1978),…(Phạm Văn Điển, 2009) [4].

b/ Ảnh hưởng của thảm thực vật rừng đến xói mòn đất

Công trình nghiên cứu đầu tiên về xói mòn và dòng chảy được thực hiện bởi nhà bác học Volni người Đức trong thời kỳ 1877 đến 1885. Những ô thí nghiệm được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thực bì, loại đất, độ dốc mặt đất, lượng mưa tới dòng chảy và xói mòn đất. Trong công trình Volni cũng nghiên cứu ảnh hưởng các loại đất và độ dốc mặt đất tới dòng chảy và xói mòn đất. Tuy nhiên, phần lớn các kết luận chưa được định lượng một cách rõ ràng (Phạm Văn Điển, 2009) [4].

Bằng các thí nghiệm trong phòng , Ellison thấy rằng các loại đất khác nhau có biểu hiện khác nhau trong các pha của xói mòn đất do nước. Ellison là người đầu tiên phát hiện ra vai trò của lớp phủ thực vật trong việc hạn chế xói mòn đất và vai trò cực kỳ quan trọng của hạt mưa rơi đối với xói mòn. Phát hiện của Ellison đã mở ra một phương hướng mới trong nghiên cứu xói mòn đất, đã làm thay đổi quan điểm nghiên cứu xói mòn đất và khẳng định khả năng bảo vệ đất của lớp thảm thực vật. Nó đã làm mở ra các phương hướng sử dụng cấu trúc thảm thực vật trong các biện pháp chống xói mòn nhằm bảo vệ độ phì của đất (Phạm Văn Điển, 2009) [4].

1.1.2.2. Khái niệm về xói mòn và các tác hại của xói mòn đất

a/ Khái niệm xói mòn đất là hiện tượng cuốn trôi các phần tử đất và dinh dưỡng từ nơi này đến nơi khác.

Có 2 loại xói mòn là xói mòn bề mặt và xói mòn theo phương thẳng đứng (theo chiều sâu).

- Xói mòn bề mặt là hiện tượng di chuyển các phần tử đất và chất dinh dưỡng từ nơi này sang nơi khác trên bề mặt đất. Trong điều kiện địa hình dốc thì đất và dinh dưỡng bị cuốn trôi từ nơi cao xuống thấp và bồi đắp cho các vùng trũng (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

- Xói mòn theo phương thẳng đứng là hiện tượng cuốn trôi các chất tan và phần tử đất theo chiều sâu trọng lực. Người ta gọi đó là hiện tượng rửa trôi hay là xói mòn theo trọng lực (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

b/ Tác hại của xói mòn đất

Tác hại của xói mòn đất được thể hiện ở các mặt sau

* Về mặt sản xuất nông nghiệp

Xói mòn là một nguyên nhân cơ bản làm cho đất bị thoái hoá, nhất là đất dốc. Các nghiên cứu về xói mòn từ trước đến nay đều đưa ra kết luận giống nhau ở chỗ: Nếu mặt đất không được che phủ tốt thì mỗi năm xói mòn bề mặt sẽ cuốn trôi từ 1,0 - 2,0 cm lớp đất mặt. Như vậy, nếu dung trọng đất xung quanh 1,5g/cm3 thì sẽ có 150 - 300 tấn đất/ha bị trôi đi hàng năm. Khi phân tích hàm lượng dinh dưỡng trong đất bị trôi thấy chứa khoảng 3,0 % mùn, 0,2 % N, 0,1 % P2O5 và 0,60 % K2O, như vậy, lượng dinh dưỡng bị mất trên 1 ha hàng năm sẽ khoảng 6 tấn mùn, 400 kg N, 200 kg P2O và 1.200 kg K2O. Rõ ràng lượng dinh dưỡng bị mất đã quá lớn khi xói mòn xảy ra mạnh. Theo tính toán thì để bề dày tầng canh tác hình thành được 1cm thì đã phải trải qua một thời gian quá dài, trong khi cứ hàng năm mặt đất dốc lại bị bào mòn đi trông thấy. Vì vậy ở những vùng đất dốc thiếu che phủ và khi canh tác thiếu các biện pháp phòng chống xói mòn thì rất dễ dẫn đến hình thành loại đất trơ sỏi đá (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

Hiện tượng xói mòn bề mặt và rửa trôi theo chiều sâu đã làm cho đất dốc canh tác nông nghiệp trở nên thoái hoá nghiêm trọng. Theo nhiều kết quả nghiên cứu trên đất dốc cho thấy do xói mòn mà năng suất cây trồng bị giảm đi nhanh chóng.

* Về mặt tài nguyên rừng

Xói mòn làm cho đất đai bị kiệt quệ, người dân không còn con đường nào khác đã tiếp tục nạn phá rừng, đốt nương làm rẫy để duy trì sự sống của họ. Họ di chuyển từ nơi này sang nơi kia sau 1 - 2 vụ và để lại sau họ là vùng đất thoái hoá, nghèo dinh dưỡng. Theo số liệu thống kê, năm 1990 độ che phủ của rừng còn 27,8 %, trong khi vào năm 1943 chúng ta có tỷ lệ che phủ rừng trong toàn quốc là 43 %. Rõ ràng xói mòn là nguyên nhân chính về mặt kỹ thuật dẫn đến tài nguyên rừng của nước ta bị cạn kiệt (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

* Về mặt thủy lợi

Xói mòn đất do nước ở Việt Nam được xếp vào loại nhất nhì trên thế giới. Lượng đất bị xói mòn đã nâng cao các lòng sông ở hạ lưu (hiện nay một số nơi của hệ thống sông Hồng đã có đáy sông cao hơn mặt đất trong đê) gây trở ngại lớn cho các công trình thuỷ lợi (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

Ngoài ra xói mòn còn gây ra nhiều thiệt hại khác nữa như sạt lở đất làm hư hại các công trình giao thông và nhà cửa gây nguy hiểm đến tính mạng của con người.

Một tác hại nữa của xói mòn chiều thẳng đứng (rửa trôi) là làm đất bị trôi mất sét, mùn, đất trở nên kém kết cấu. Lượng dinh dưỡng bị trôi khi rửa trôi làm chế độ dinh dưỡng tầng mặt bị suy giảm. Rửa trôi còn là nguyên nhân gây nên hiện tượng kết von đá ong làm hư hại đất (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

c/ Các yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn

Khi nghiên cứu về nguyên nhân gây ra xói mòn đất do mưa người ta thấy chủ yếu tập trung vào các yếu tố sau:

* Mưa và dòng chảy

Những nơi mưa ít và không tập trung như vùng ôn đới thì xói mòn do gió là rất phổ biến. Còn vùng nhiệt đới mưa nhiều như Việt Nam thì mưa là nguyên nhân cơ bản gây nên xói mòn đất (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

Do ảnh hưởng của điều kiện nhiệt đới gió mùa, nên lượng mưa ở Việt Nam rất cao, trung bình từ 1.500 - 3.000 mm/năm và tập trung tới 85% vào mùa mưa. Ở miền Bắc mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Lịch sử khí hậu Việt Nam đã ghi lại có những trận mưa đến 900 mm với cường độ lớn đã gây ra xói mòn nghiêm trọng (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

Về cơ chế của mưa gây ra xói mòn bề mặt được biểu thị bằng hình 2.1

P2

P1

d

R

 

 

 

 

 

Hình 1.1. Sơ đồ phân bố lượng nước khi mưa

Khi mưa xuống đất dốc, một phần ngấm theo trọng lực (P1), một phần bốc hơi (P2) còn lại sẽ tạo thành dòng chảy d, như vậy ta có:

d = R - (P1+ P2)

Trong thực tế, trong khi mưa thì P1 hầu như không đáng kể (vì ẩm độ không khí cao), do vậy d sẽ tỉ lệ nghịch với P2 và tỉ lệ thuận với R. Nghĩa là mưa càng to và tập trung, đất có khả năng thấm thấp thì dòng chảy sẽ càng mạnh. Theo các nghiên cứu có tính toán thì chỉ cần một trận mưa tập trung với lưu lượng lớn hơn hoặc bằng 10 mm đã gây dòng chảy bề mặt và tất yếu sẽ gây xói mòn (tất nhiên còn tuỳ thuộc vào các yếu tố che phủ và tính chất đất đai) (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

Mặt khác, ngay trong một trận mưa thì thường mới mưa đất thấm mạnh nhưng càng về sau tốc độ thấm càng giảm và xói mòn càng về sau càng mạnh khi cường độ mưa càng lớn.

Hạt mưa khi rơi vào đất đã bắn phá làm bắn tung các phần tử đất màu mỡ lên (khi mặt đất không có che phủ) và dòng chảy sẽ cuốn trôi đi. Giọt mưa càng lớn, cường độ mưa càng lớn thì lượng đất bắn tung ra càng nhiều và xói mòn càng lớn (Bảng 1.1).

Bảng 1.1. Ảnh hưởng của đường kính hạt mưa, tốc độ và
cường độ mưa tới lượng đất bị bắn lên

Tốc độ giọt mưa

(m/s)

Đường kính hạt mưa (mm)

Cường độ mưa

(cm/h)

Lượng đất bị

bắn tung (g)

4,0

5,5

5,5

5,5

3,5

3,5

5,1

5,2

12,2

12,2

12,2

20,6

67,0

223,0

446,0

690,0

(Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6]

Cho đến nay các nghiên cứu về xói mòn bề mặt đã đủ sở cứ cho ta kết luận là: Việc giọt mưa bắn phá vào đất có tác động mạnh mẽ nhất để gây ra xói mòn, thứ 2 mới là tốc độ dòng chảy bề mặt.

* Địa hình

Địa hình là yếu tố quan hệ chặt tới xói mòn bề mặt vì với địa hình dốc, dòng chảy sẽ dễ xảy ra, còn trong điều kiện đất bằng phẳng thì xói mòn bề mặt do mưa hầu như không đáng kể. Địa hình dốc là yếu tố “bảo thủ” khó khắc phục.

Cường độ xói mòn tỷ lệ thuận với độ dốc, theo định luật Ery thì khi độ dốc tăng 2 lần, tốc độ dòng chảy tăng 4 lần và xói mòn sẽ tăng 64 lần (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

* Yếu tố che phủ đất

Độ che phủ mặt đất tỷ lệ nghịch với xói mòn đất. Đất càng kém che phủ càng bị xói mòn mạnh và ngược lại.

Khi mặt đất bị che phủ kín sẽ hạn chế tối đa lực tác động của hạt mưa bắn phá vào đất. Mặt khác nếu có thảm cây rập rạp thì mưa sẽ theo lá, cành chảy qua thân vào đất. Bộ rễ ăn sâu và chằng chịt của cây tạo điều kiện tăng khả năng thấm. Như vậy xói mòn sẽ giảm tối đa (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

* Tính chất đất

Yếu tố đất đai ảnh hưởng đến xói mòn trên cơ sở 4 tính chất là: thành phần cơ giới, hàm lượng chất hữu cơ, kết cấu đất và độ dày tầng đất.

Thành phần cơ giới đất ảnh hưởng đến tốc độ thấm nước vào đất: Thành phần cơ giới nhẹ, thô thấm nước nhanh hơn nặng. Ngoài ra, các phần tử mịn dễ bị cuốn trôi hơn phần tử thô, nên bị xói mòn mạnh hơn.

Chất hữu cơ trong đất nhiều hay ít đều ảnh hưởng đến xói mòn: Khi nhiều chất hữu cơ thì nước thấm nhanh hơn làm giảm xói mòn đất và ngược lại khi nghèo hữu cơ thì thấm chậm gây dòng chảy dẫn đến xói mòn mạnh. Hàm lượng chất hữu cơ và mùn nhiều sẽ cho đất có kết cấu tốt và hạn chế xói mòn (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

Ảnh hưởng rõ rệt hơn cả là kết cấu đất. Đất có kết cấu viên bền, tơi xốp không những thấm nước nhanh mà còn chống chịu sự bắn phá của động lực hạt mưa, hạn chế xói mòn và ngược lại.

Đất càng dày mà có kết cấu tốt thì thấm nước nhiều, nhanh nên xói mòn ít hơn đất mỏng và không có kết cấu (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

* Con người

Con người tác động đến xói mòn đất được biểu hiện ở 2 thái cực: Nếu không có ý thức trong quá trình sử dụng đất thì sẽ góp phần làm cho xói mòn đất trở nên nghiêm trọng, ngược lại nếu chú ý bảo vệ, bồi dưỡng đất thì sẽ hạn chế xói mòn (Nguyễn Thế Đặng, 2006) [6].

Khi con người khai thác rừng, đốt nương, làm rẫy... đã làm mất lớp phủ bảo vệ quan trọng, đồng thời làm huỷ hoại kết cấu đất, dẫn đến xói mòn xảy ra mạnh mẽ. Trong quá trình trồng trọt và làm đất thường con người chỉ chú ý đến thời vụ cây trồng chứ không quan tâm đến xói mòn đất nên đất càng bị xói mòn nghiêm trọng hơn: Như làm đất, xới xáo, làm cỏ trắng vào mùa mưa hay trồng theo luống dọc theo dốc ....

Nếu con người khi canh tác trên đất dốc biết áp dụng các biện pháp chống xói mòn thì sẽ hạn chế xói mòn

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và trên thế giới

1.2.1. Ở trên thế giới 

1.2.1.1. Thành quả nghiên cứu

1.2.1.1.1. Khả năng thấm nước của đất

Tuần hoàn thủy văn rừng được mô tả theo một trình tự nhất định, bắt đầu từ khi nước mưa đi vào hệ sinh thái, đến quá trình nước mưa bị giữ lại trên tán rừng, nước mưa lọt qua tán, nước mưa chảy men thân cây, nước mưa chảy tràn bề mặt đất, đến quá trình nước thấm xuống đất, bốc hơi nước vật lý từ đất từ thảm mục, thoát hơi nước của thực vật để trở về khí quyển. Nhìn chung, các quá trình trên chịu ảnh hưởng rõ nét của cấu trúc lớp thảm thực vật rừng, chế độ mưa, địa hình, đất.

Quá trình thấm nước của đất là một trong những vấn đề được nghiên cứu sâu rộng trong lĩnh vực thủy văn học. Theo lý luận phát sinh dòng chảy bề mặt, sự thấm nước của đất là chỉ thị cho khả năng của tầng điều tiết quan trọng trong tuần hoàn thủy văn rừng, sau khi nước mưa đi qua bầu khí quyển và lớp thảm thực vật che phủ. Sự thấm nước của đất có tác dụng rất quan trọng trong việc hình thành cơ chế phát sinh dòng chảy.

Trên thế giới, công trình đầu tiên nghiên cứu về đặc trưng thấm của đất là của nhà bác học Darcy vào năm 1856, ông đã đưa ra định luật có tên Định luật Darcy để tính lượng nước thấm vào đất theo phương trình.

Q = K.S.T.h/l

Trong đó:  

          Q là lượng nước thấm (cm3);

K là hệ số thấm (cm3);

T là thời gian thấm (phút);

H là độ chênh lệch áp lực cột nước ở đầu trên và đầu dưới của cột thấm;

L là chiều dài đoạn đường thấm (cm).

Đồng thời định luật còn được biểu thị bằng phương trình tốc độ thấm

V = K.I

Trong đó:

V là tốc độ thấm được đo bằng (mm/giây,cm/phút, m/ngày.đêm);

I = h/l          .

Sau này người ta nhận thấy rằng khi xác định tính chất thấm của đất trong những điều kiện nhiệt độ thay đổi thì không thể so sánh được. Do vậy, người ta quy về điều kiện chuẩn ở 100C bằng cách sử dụng "hệ số điều chỉnh nhiệt độ" của Hazen là (0,7+0,03t) khi tính toán hệ số thấm.

Hệ số thấm theo nhiệt độ điều chỉnh được tính theo công thức sau:

K10 = Kt / (0,7 + 0,03t)

Trong đó:

K10 là hệ số thấm ở điều kiện 100C;

Kt là hệ số thấm thời điểm t;

T là nhiệt độ nước sử dụng khi xác định.

Đến năm 1937, Vusoski nhà bác học Nga đã xây dựng công thức tính lượng nước thấm xuống mặt đất:

W = P0 - (E0 + T +S)

Trong đó:

W là lượng nước thấm xuống;

P0 là nước mưa trung bình năm tại khu vực nghiên cứu;

E0 là lượng nước bốc hơi;

T là lượng nước thoát hơi từ thực vật;

S là lượng nước chảy trên mặt đất.

Có rất nhiều mô hình thấm nước của đất dựa vào việc đơn giản hóa quá trình vật lý và mô hình kinh nghiệm, có thể liệt kê các mô hình thấm nước đã được xây dựng như:

Bảng 1.2. Các mô hình thấm nước đã được xây dựng

STT

Mô hình

Năm

STT

Mô hình

Năm

1

Green and Ampt

1911

11

Smith

1972

2

Kostiakov

1932

12

Dooge

1973

3

Horton

1933

13

Morel-Seytoux and Khanli

1975

4

Philip

1957

14

Partange

1976

5

Holtan

1961

15

Collis - george

1977

6

Overton

1964

16

Smith and Parlange

1978

7

Hudrograph model

(Dunin,1969)

1969

17

Zhao

1981

8

Modified Kostiakov

-

18

HEC

1981

9

Mein and Larson

1971

19

Simgh and Yu

1990

10

Snyder

1971

20

Mishra and Singh

2002

(Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10]

Đáng chú ý là mô hình thấm của Green - Ampt, Horton, Philip, Smith, Smith and Parlange.

Mô hình Green - Ampt được xây dựng dựa trên cơ sở của định luật Darcy. Tác giả xây dựng công thức tính tỉ lệ thấm: f = K(d + Lf + Ψ)/Lf

Trong đó:

f là tốc đọ thấm, f  biến đổi theo thời gian khi mà front nước nước thấm tiến sâu dần vào trong đất;

K là độ dẫn thủy của phần đất đã được thấm nước trong phẫu diện đất;

Lf  là độ sâu của front nước thấm;

Ψ là áp suất thủy đầu tại đầu của front nước thấm;

d là độ sâu lớp nước bề mặt.

Horton (1933) (Surendra Kumar Mishra and Vijay P.Singh, 2003) lại dựa vào tốc độ thấm khởi đầu, ổn định xây dựng mô hình thấm và đưa ra công thức:

f = fc + (f0 - fc)e-kt

Trong đó:

f  là tốc độ thấm tại thời điểm t;

fc là tốc độ thấm ổn định;

f0 là tốc độ thấm ban đầu;

k là hằng số;

t là thời gian.

Philip (1957) (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10] lại sử dụng tỉ lệ hút nước và tốc độ thấm nước ổn định rồi thiết lập mô hình thấm nước:

i = 0,5.S.t-1/2 + A hoặc i = S.t1/2 + At

Trong đó

i là tốc độ thấm tại thời điểm t (m/s);

t là thời gian thấm (giây);

S là tỉ lệ hút nước;

A là hệ số dẫn thủy bão hòa (m/s)

Smith (1972) (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10] đã xây dựng công thức tính tốc độ thấm:

f = fc + A(t0 - tc)

f  là tốc độ thấm tại thời điểm t;

fc là tốc độ thấm ổn định;

A, t và α là những chỉ số kinh nghiệm nó phụ thuộc vào từng loại đất và lượng mưa.

Năm 1978, Smith và Parlange (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10] thiết lập mô hình thấm cải tiến:

f = K(C0/KF)

Trong đó:

f  là tốc độ thấm tại thời điểm t (cm/h);

F là tổng lượng thấm (cm);

K là hệ số dẫn thủy (cm/h).

Những mô hình này đã đạt được những thành công khá lớn. Đã mô phỏng được những sự vận động của nước trong đất nông nghiệp và thủy văn lưu vực đất nông nghiệp. Tuy nhiên khi ứng dụng trong lưu vực rừng lại gây ra những khó khăn. Vì rằng, khi nước thấm vào trong đất, vận động của nước chịu sự khống chế của trọng lực do lực hấp dẫn địa cầu sinh ra và lực mao quản do tiếp xúc giữa nước và hạt đất, do sự biến đổi của kết cấu đất và thành phần cơ giới dẫn đến sự rối loạn đan chéo trong con đường vận động của nước trong đất. Như vậy việc ứng dụng định luật Darcy cho sự vận động của nước trong đất rừng để nghiên cứu định lượng và dự báo sẽ dẫn đến sự sai lệch tương đối lớn so với tình hình thực tế, bởi vậy phạm vi sử dụng của định luật Darcy chỉ cho sự vận động của dòng chảy trong một tầng đất. Từ góc độ ảnh hưởng của rừng đối với tuần hoàn thủy văn mà xét, do trong hoàn cảnh của rừng có sự phân giản liên tục của thảm mục, hoạt động của rễ cây, hoạt động phong phú của thự vật dẫn đến vận động của dòng chảy theo đường ống trong các lỗ hổng tuơng đối lớn (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10].

Theo Dunne đất rừng có tốc độ thấm nước lớn hơn nhiều lần so với đất dưới các dạng thảm thực vật khác, tốc độ thấm nước ổn định của rừng có thể đạt 80mm/giờ trở lên (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10]

Bảng 1.3. Tốc độ thấm ổn định của một số loại đất (mm/phút)

Loại đất

Đất trống

Đất

hoa màu

Đất trồng cỏ nghèo

Đất trồng

cỏ tốt

Đất rừng

Kết cấu thô vừa, cát, sỏi

8

13

15

25

76

Kết cấu mịn tới rất mịn

1

2

2

5

6

(Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10]

Kết quả nghiên cứu của Diêu Hoa Hạ (1989), Thẩm Băng và Nông Tấn (1992) và Trần Huệ Tuyền (1994) cho thấy đất rừng có độ hổng mao quản lớn thì tốc độ thấm nước sẽ tăng lên và có thể mô phỏng quá trình thấm nước của đất rừng theo mô hình Phillip.

Về phương pháp nghiên cứu , Geering (1995), có thể dùng các thiết bị đĩa đo độ thấm (disc permeameter), lỗ khoan đo độ thấm (borehole  permeameter) và vòng đôi đo thấm (Daniel B.Stephens, 1995).

Lee Macdonal (1999) cho rằng, để nghiên cứu khả năng thấm nước của đất nên áp dụng 2 phuơng pháp sử dụng vòng đo thấm và thí nghiệm mưa nhân tạo trong ô thí nghiệm (rainfall simulator).

Meyer (1960), sự xuất hiện các thiết bị gây mưa nhân tạo đã mở ra triển vọng phát triển mới trong nghiên cứu thủy văn rừng, rút ngắn thời gian nghiên cứu, đồng thời nâng cao độ chính xác của kết quả. Trong thời gian này, thiết bị gây mưa nhân tạo là dụng cụ được sử dụng khá phổ biến trong nghiên cứu thủy văn rừng. Tuy nhiên, theo N.Hudson (1981), mặc dù phuơng pháp gây mưa nhân tạo tỏ ra có rất nhiều ưu điểm song lại có yêu cầu rất nghiên ngặt về trang thiết bị nghiên cứu cũng như việc thiết kế và sử dụng các trang thiết bị ấy trong quá trình thí nghiệm, kết quả nghiên cứu phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan của nhà nghiên cứu như trình độ, kinh nghiệm....(Phùng Văn Khoa, 1998) [11].

Trong nghiên cứu thấm trên cơ sở gây mưa nhân tạo có bản chất: Biết biết chính xác lượng mưa đầu vào, dỏng chảy mặt từ đó tính lượng thấm. Phương pháp này có một số ưu điểm: Điều chỉnh được tổng lượng mưa, cường độ mưa, kết quả nghiên cứu là tương đối chính xác vì gây mưa nhân tạo cũng tương đối giống điều kiện mưa thực tế. Tuy nhiên, phương pháp này lại có một số tồn tại khi thực hiện như việc cung cấp một lượng mưa vô cùng lớn (có thể vài m3 cho một ô thí nghiệm), công việc này càng không dễ khi thực hiện ở những nơi có địa hình phức tạp. Trong một số trường hợp, khi tiến hành thí nghiệm theo phương pháp này lại là nguyên nhân gây ra những biến đổi không mong muốn như xói mòn đất,... Nhìn chung thí nghiệm mưa nhân tạo không hề đơn giản. Điều này thể hiện trong việc lựa chọn kích thước cũng như tốc độ của hạt mưa nhân tạo sao cho giống hạt mưa tự nhiên. Nếu lựa chọn hai chỉ tiêu trên không hợp lý sẽ ảnh hưởng rất lớn tới kết quả thí nghiệm bởi lẽ chúng chi phối tới áp lực của hạt mưa vào đất.

Đối với phương pháp sử dụng vòng đo thấm, có thể áp dụng 2 cách: Dùng vòng đơn (Simple ring), hoặc vòng đôi (douple ring). Đơn giản, dễ dàng và rẻ tiền là ưu điểm của phương pháp này. Mặc dù vậy, thí nghiểm kiểu này lại khác xa nhiều so với mưa tự nhiên do không có động năng của hạt mưa. Tuy nhiên, đối với những vùng có điều kiện tốt về thảm thực vật - nơi mà sức công phá của hạt mưa không đáng kể thì có thể áp dụng phương pháp này. Đây chính là phương pháp mà luận văn tiếp cận.

Geeves (1995) đã sử dụng phương pháp vòng đôi để nghiên cứu khả năng thấm của đất. Ông đưa ra công thức tính lượng nước thấm vào đất như sau

IR (infiltration rate) = độ sâu x 10

Nếu tốc độ thấm lớn hơn 1cm/6 phút thì công thức tính IR = 600/time (trong đó thời gian tính bằng phút). Trên cơ sở tốc độ thấm nước trong 1 giờ (mm/h), Geeves đã phân chia thành các loại kết cấu đất theo bảng sau:

Bảng 1.4. Phân chia các loại kết cấu đất dựa vào mức thấm nước

Mức thấm (mm/h)

Kết cấu đất

0 - 10

Rất kém

10 - 30

Kém

30 - 70

Vừa phải

> 70

Rất tốt

(Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10]

Theo hướng sử dụng vòng đo thấm, Lee Macdolnald đã đưa ra vài kết luận: kết quả nghiên cứu chịu ảnh hưởng của hiệu ứng bờ  tức là nước bị thấm ra ngoài phạm vi vòng thấm, kích thước của vòng thấm ảnh hưởng tới ảnh hưởng tới khả năng thấm. Nghiên cứu khả năng thấm nước ở hầu hết các loại đất với độ cao mực nước là 5cm, tác giả đã xây dựng bảng đánh giá ảnh hưởng của kích thước vòng thấm tới hệ số dẫn thủy như sau:

Bảng 1.5. Đánh giá ảnh hưởng của kích thước vòng thấm tới hệ số dẫn thủy

Đương kính vòng sắt (cm)

Hệ số dẫn thủy Ks (cm/h)

10

2,7

20

2,2

40

1,8

80

1,5

120

1,3

(Nguồn: Lee Macdonald, 2003) [26]

Lee Macdonald (2003)[26], loại đất có ảnh hưởng tới hệ số dẫn thủy, tác giả đã thiết lập bảng đánh giá ảnh hưởng của các loại đất tới hệ số dẫn thủy:

Bảng 1.6. Đánh giá ảnh hưởng của các loại đất tới hệ số dẫn thủy

Loại đất

Hệ số dẫn thủy Ks (cm/h)

Đất cát, sỏi

1,3

Đất nông nghiệp

1,6

Bùn, đất sét

2,3

Đất đã bị chai cứng

5,7

(Nguồn: Lee Macdonald, 2003) [26]

Hệ số dẫn thủy của đất còn phụ thuộc vào chiều cao của cột nước trong vòng đo thấm. Tác giả đưa ra 4 mực nước là 5, 10, 20, 40 với hệ số thủy dẫn tương ứng là 1,6; 1,8; 2,3; 3,2.

1.2.1.1.2. Khả năng giữ nước của đất

Khả năng giữ nước của đất là khả năng giữ lại nước trong điều kiện có dòng chảy tự do phía dưới. Số lượng nước được đất giữ lại trong điều kiện như vậy được đặc trưng bằng độ trữ ẩm toàn phần và có tầm quan trọng trong sản xuất nông nghiệp cũng như trong kinh doanh rừng. Do đó, có rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu vấn đề này.

Penman (1991) (Nguyễn Thị Bích Ngọc, 2005)[17] đã sử dụng phương pháp động lượng học không khí để tính toán ra lượng lưu thông tiềm nhiệt dùng cho bốc hơi. Monteith cải tiến thêm thành phương pháp tính toán hiệu suất phản xạ của thảm thực vật hình thành phương pháp pemman-monteith để tính toán lượng phát tán hơi nước, trong đó việc xác định lực cản động lực học không khí và lực cản của tầng tán rừng có tầm quan trọng bậc nhất.

Theo Jones (1997) nhìn từ góc độ hình thành dòng chảy nếu như không có con đường ưu tiên của vận động của nước trong đất (dòng ưu tiên), sẽ không có khả năng hình thành dòng chảy mạch nước ngầm, dòng chảy tốc độ nhanh trong đất, dòng chảy lưu vực ...(Đỗ Đình Sâm và cộng sự, 2002)[19]

Những nghiên cứu của Atkinson (1978) về dòng chảy ưu tiên chủ yếu là sử dụng dòng chảy theo đường ống, dòng chảy theo đường ống là vận động của dòng chảy rối loạn của chất lỏng đi theo con đường vận động thông qua các lỗ hổng lớn hơn mao quản(Lê Hồng Liên, 2004)[13].

Trong nhưng năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dòng chảy mặt như công trình nghiên cứu của Motranov A.A (1960,1973), Matveev P.N (1973), Santra regina L.(1989), Giacomin (1992) (Phùng Văn Khoa, 1997) [11] ... Một trong những công trình nghiên cứu toàn diện phải kể đến công trình của Moltranov tiến hành tại Liên Xô. Tác giả này đã nghiên cứu khá tỉ mỉ về khả năng thấm và giữ nước của đất rừng, sự khác biệt về lượng nước bị giữ lại ở trên các tán rừng, lượng nước chảy men thân cây, lượng mưa dưới tán rừng. Tác giả khả định ngay rằng ở những nơi có độ dốc 25-300, đất rừng vẫn có khả năng chuyển nước chảy mặt thành nước ngầm. Hiệu quả làm khô đất của cây rừng ở Liên Xô không chỉ thấy trên các vùng đầm lầy mà còn ở những khu vực có lượng mưa thấp như các vùng Trung Á. Kết quả nghiên cứu của Moltranov có ý nghĩa không chỉ trong công tác xây dựng tiêu chuẩn rừng giữ nước mà còn trong lĩnh vực nghiên cứu hình thành và phương pháp nghiên cứu thủy văn rừng.

Theo Rode va Koloskop độ trữ ẩm hấp thụ cực đại là lượng nước lớn nhất mà đất giữ lại nhờ lực hấp phụ, hay nói cách khác là lượng nước lớn nhất của nước liên kết chặt. Theo Lebedev, độ trữ ẩm phân tử cực đại là lượng nước lớn nhất được giữ lại trong đất nhờ lực phân tử, bao gồm nước hút ẩm không khí cực đại và nước màng. Theo Rozop (1936), Rode (1952, 1963, 1969), Astapop (1943), Katriski (1970) độ trũ ẩm cực đại là lượng nước lớn nhất mà đất giữ lại được sau khi nước trong lưu vực đã rút chảy và không có hiện tượng dâng mao quản từ dưới mạch nước ngấm lên (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10].

Bude Ko (1943) đã sáng lập ra phương pháp cân bằng năng lượng thông qua việc dựng lên một phương trình cân bằng năng lượng để xác định lượng lưu thông tiềm nhiệt dùng cho bốc hơi nước, từ đó xác định lượng nước bốc hơi. (Nguyễn Thị Bích Ngọc, 2005)[17]

Trên cơ sở nghiên cứu nhiều năm, Kantrinski còn đưa ra độ trữ ẩm cực đại như sau:

Bảng 1.7. Đánh giá độ trữ ẩm cực đại của đất

Đất có thành phần cơ giới nặng

Đất có thành phần cơ giới nhẹ

Độ trữ ẩm so với đất khô

Đánh giá

< 25

Không đạt yêu cầu đối với đất canh tác

Đối với cây rừng thích nghi ở đất cát

25 - 30

Trung bình

Đối với cây trồng thích nghi ở đất cát, độ trữ ẩm không được nhỏ hơn 10%

30 - 40

Tốt

Đất cát (đất trồng trọt) ở tầng cày có độ trữ ẩm cực đại từ 20 - 25%

40 - 50

Tốt nhất

(Nguồn: Trần Kông Tấu và cộng sự,1986) [20]

Theo Rode AA lượng chứa nước hữu hiệu trong đất được chia thành các dạng sau:

Bảng 1.8. lượng chứa nước hữu hiệu trong đất

- Không tiêu (thực vật không sử dụng được)

- Độ trữ ẩm từ không đến sức chứa ẩm phân tử cực đại

- Rất khó sử dụng

- Từ sức chứa ẩm phân tử cực đại đến độ ẩm cây héo

- Khó sử dụng

- Từ độ ẩm cây héo đến độ ẩm đứt mao mạch dẫn

- Sử dụng trung bình

- Từ độ ẩm đứt mao mạch dẫn đến sức chứa ẩm cực đại

- Dễ sử dụng chuyển sang trạng thái thừa

- Từ sức chứa ẩm cực đại sức chứa ẩm toàn phần.

(Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10]

Các nhà khoa học Trung Quốc cũng khẳng định vai trò quan trọng của rừng trong việc bảo vệ đất và nước là lơn hơn nhiều so với giá trị trực tiếp mà nó mang lại. Theo Trần Huệ Tuyền đã nghiên cứu khả năng giữ nước của rừng đầu nguồn hồ Tùng Hoa - Côn Minh (Trung Quốc) cho thấy với diện tích rừng đầu nguồn là 60.000ha, độ tàn che là 30%, hàng năm giữ nước được khoảng 8,3 triệu m3 nước. (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10]

          Khi nghiên cứu về bốc hơi nước, Danton (1976) (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10], khẳng định, khả năng giữ nước của đất phụ thuộc vào khả năng bốc hơi nước bề mặt đất và đưa ra phương trình sau:

V = k.(F - f).760S/P

          Với V là lượng nước thoát hơi; k là hệ số khuếch tán; F là áp lực hơi nước bão hòa trong khoảng không gian xung quanh bề mặt bốc hơi ở nhiệt độ đã cho; f là áp lực nước ở môi trường xung quanh; P là áp lực không khí; S là diện tích của bề mặt bốc hơi.

          Ngoài ra, vật rơi rụng cũng có khả năng ngăn giữ dòng nước tương đối lớn, nên có tác dụng bổ sung nước cho đất và cung cấp nước cho thực vật. Những nghiên cứu của Black & Kelliher năm 1989 cho thấy rằng: lượng nước bốc hơi từ vật rơi rụng của các kiểu rừng khác nhau chiếm khoảng 3 - 21% tổng lượng nước bốc hơi trên mặt đất rừng (Phạm Văn Điển, 2006)[3].

          Nhìn chung, những nghiên cứu về khả năng thấm, giữ nước của đất rừng  của các tác giả là khá đa dạng và đã có những kết quả nhất định có thể áp dụng vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp.

1.2.1.1.3. Lượng nước bốc hơi

          Bốc hơi nước trên đất rừng là một trong những nhân tố quan trọng nhất của tuần hoàn nước và cân bằng năng lượng của hệ sinh thái rừng; những biến đổi về lượng nước sản sinh ra của lưu vực do những biến đổi của rừng gây ra có liên quan chặt chẽ với bốc hơi nước của rừng. Người ta cho rằng: thảm thực vật rừng có lượng nước thoát hơi lớn hơn các loại thảm thực vật khác, cộng với sự ngăn giữ nước của các tầng tán rừng và lớp thảm mục trong rừng chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho lượng nước sản sinh ra của lưu vực tăng lên khi diện tích rừng giảm đi. Vì thế việc đo lường hoặc tính toán chuẩn xác những biến đổi theo không gian và thời gian của bốc hơi nước trên đất rừng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đánh giá ảnh hưởng cơ lý của tuần hoàn thủy văn rừng và mở mang khai thác mô hình thủy văn lưu vực, đối với việc định ra phương án quản lý kinh doanh rừng hợp lý, Tuy nhiên, do có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến bốc hơi của rừng, và cũng do tính khác biệt về thời gian và tính dị biệt về không gian cực kỳ lớn, cho nên nếu đem những kết quả thí nghiệm với một quy mô tương đối nhỏ trên hiện trường thực nghiệm mà quy tính áp dụng cho quy mô sườn dốc hoặc lưu vực tương đối lớn sẽ tất yếu ảnh hưởng đến độ chuẩn xác của nó.

          Bốc hơi nước trên đất rừng là do các quá trình trao đổi bức xạ, chuyển dịch (vận chuyển) của hơi nước và sinh trưởng phát triển của sinh vật tạo nên. Phương pháp đo lường chuẩn xác nhất là sử dụng thiết bị đo bốc hơi nước Lysimeter, nhưng do tính hạn chế của nó khi đem ra sử dụng ngoài thực tế đồng ruộng, nên chưa được ứng dụng rộng rãi. Các phương pháp được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu bốc hơi nước của rừng bao gồm: phương pháp thủy văn học, phương pháp khí tượng học, phương pháp thủy động lực học đất và phương pháp sinh lý thực vật học.

          Phương pháp thủy văn học là phương pháp dựa vào phương trình cân bằng lượng nước hệ thống, thông qua đo lường lượng mưa, lượng nước thấm xuống các tầng đất sâu, lượng dòng chảy trên mặt đất và biến đổi động thái của nước được tích giữ trong đất, để tính toán ra lượng bốc hơi hệ thống.

          Phương pháp vi khí tượng học lại có thể chia ra làm 4 phương pháp là:

          - Phương pháp động lực học không khí

          - Phương pháp cân bằng năng lượng

          - Phương pháp tổng hợp

          - Phương pháp tương quan dòng xoáy.

          Phương pháp động lực học không khí là dựa vào mối quan hệ giữa lượng nước lưu thông theo chiều thẳng đứng với thang độ độ ẩm theo chiều thẳng đứng, thông qua tài liệu phân bố của tốc độ gió theo chiều thẳng đứng để tính toán ra hệ số trao đổi hỗn lưu hơi nước và sau đó tính ra lượng bốc hơi. Phương pháp cân bằng năng lượng được coi là phương pháp là một phương pháp vi khí tượng học để xác định lượng bốc hơi nước của rừng chuẩn xác nhất và thực dụng nhất hiện nay (Phạm Văn Điển, 2008)[5]. Người sáng lập ra phương pháp này là học giả Liên Xô cũ nổi tiếng Budyko, ý tưởng cơ bản của phương pháp này là thông qua việc dựng lên một phương trình cân bằng năng lượng để xác định lượng lưu thông tiềm nhiệt dùng cho bốc hơi nước, từ đó mà tính ra lượng nước bốc hơi. Cũng giống như với phương pháp cân bằng năng lượng dễ sinh ra sai số khá lớn. Phương pháp tổng hợp là sự tổng hợp của hai phương pháp nêu trên, tức là kết hợp phương trình lưu thông không khí với phương trình cân bằng năng lượng lại với nhau, từ đó không cần phải xác định hơi nước trong tán rừng, tốc độ gió, thang nhiệt độ (từ mặt đất lên đến tán rừng) cũng vẫn có thể tính toán được bốc hơi nước của đất rừng. Penman sử dụng phương pháp động lực học không khí để tính toán ra lượng lưu thông tiềm nhiệt dùng cho bốc hơi nước, Monteith cải tiến thêm thành phương pháp tính toán tỷ lệ phản xạ của thảm thực vật, vì thế loại phương pháp này chính là sử dụng phương trình Penman - Monteith để tính toán lượng bốc hơi nước, trong đó việc xác định lực cản trở (trở lực) động lực học không khí và lực cản trở (trở lực) của tầng tán rừng có tầm quan trọng bậc nhất.

          Phương pháp thủy động lực học đất cũng còn gọi là phương pháp lượng lưu thông số 0, phương pháp lượng lưu thông bề mặt và phương pháp lượng lưu thông định vị (Lôi Chí Đống v.v… 1998; Dư Thân Hiểu, 1993 - dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006)[3]. Như trên đã đề cập, do hiện nay các phương pháp lượng lưu thông đều trực tiếp sử dụng định luật Darcy - miêu tả di động của nước theo hướng thẳng đứng và phương trình giữ cân bằng khối lượng để tính toán lượng bốc hơi nước, nên khi đem phương pháp này ứng dụng cho lưu vực rừng thì độ tin cậy của nước theo phương ra hai bên sườn dốc, khiến cho khi tính toán lượng lưu thông phải dùng đến phương trình dòng chảy theo không gian hai chiều mới thực hiện được.

          Ở Trung Quốc bắt đầu công tác nghiên cứu bốc hơi nước của rừng vào đầu những năm 60 (thế kỷ XX), phần lớn kết quả nghiên cứu cho thấy, lượng bốc hơi của hệ sinh thái rừng bao gồm cả tổn thất nước do ngăn giữ của tán rừng và thảm mục… đại thể chiếm vào khoảng 40 - 80% của lượng mưa nơi đó (Phạm Văn Điển, 2006)[3]. Khang Văn Tinh sử dụng phương pháp khuếch tán hỗn lưu để tiến hành nghiên cứu quy luật bốc hơi bình quân năm trong rừng Samu nhân tạo chiếm 82,2% tổng lượng nước rơi hàng năm, trong đó lượng bốc hơi và thoát hơi nước của tán rừng chiếm khoảng 89,3% tổng lượng bốc hơi và thoát hơi nước của rừng, còn lượng bốc hơi nước của đất rưndg chiếm có 10,7%; Kết quả này hoàn toàn phù hợp với lượng bốc hơi và thoát hơi nước được tính toán theo phương pháp cân bằng nước.

1.2.1.2. Tồn tại nghiên cứu

          Mặc dù đã thu được nhiều thành quả trong gần một thế kỷ qua, nhưng việc nghiên cứu khả năng thấm và giữ nước của đất rừng trên thế giới vẫn còn tồn tại một số bất cập như:

          - Thiếu các mô hình toán học đảm bảo độ tin cậy và đơn giản để mô phỏng quá trình chảy tràn, đọng nước trên bề mặt…

          - Nghiên cứu đặc trưng thấm và giữ nước của đất rừng chưa được nghiên cứu một cách độc lập, vẫn chỉ như một nhánh trong nghiên cứu thủy văn rừng.

1.2.2. Ở Việt Nam

1.2.2.1. Thành quả nghiên cứu

1.2.2.1.1. Khả năng thấm nước của đất

Ở việt Nam, những nghiên cứu và khả năng thấm nước của đất thường đi kèm với nghiên cứu thủy văn rừng, xói mòn đất, dòng chảy mặt. Cho tới nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách chi tiết và khả năng thấm nước của đất. Phần lớn các đề tài chỉ nghiên cứu tốc độ thấm trên một khía cạnh là yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn và dòng chảy mặt. Một số ít nghiên cứu tốc độ thấm và ảnh hưởng của một số nhân tố như lượng mưa, cường độ mưa, độ xốp đất, độ ẩm, độ dốc tới tốc độ thấm.

Những nghiên cứu về dòng chảy mặt và xói mòn đất của Bùi Ngạnh (1977), Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1997) cho thất rừng càng dày rậm tự nhiên thì lượng nước thấm vào đất và chuyển thành dòng chảy ngầm càng nhiều, khả năng làm giảm xói mòn càng lớn.

Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự (1995)[14], mức độ thấm được coi là nhân tố ảnh hưởng lớn tới xói mòn và dòng chảy. Tác giả đã phân cấp mức độ thấm sau đó cho điểm từ đó đánh giá vai trò của nhân tố đất ảnh hưởng tới xói mòn và dòng chảy.

Một số công trình khác cũng đề cập đến ảnh hưởng của kiểu thảm thực vật với khả năng thấm nước của đất rừng như Nguyễn Viết Phổ (1992), Phạm Ngọc Dũng ( 1993). Các tác giả khẳng định, ở nước ta cây rừng có khả năng tiêu thụ một lượng nước rất lớn. Đồng thời còn khẳng định đất rừng cũng là một nhân tố ảnh hưởng rất rõ nét đến vận tốc thấm. Sự khác nhau về tính chất đất, chủ yếu là tính chất vật lý của các loại đất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thấm nước của đất. Nguyễn Ngọc Lung (1992) đã dựa vào mức độ thấm, thoát hơi và sự thoái hóa của các loại đất để cho điểm và đánh giá vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đất đến tính thấm.

Phạm Văn Điển (2006), Phạm Văn Điển  và Phạm Đức Tuấn (2008), trong nghiên cứu đặc trưng thấm nước của đất dưới một số trạng thái thảm thực vật ở vùng hồ thủy điện Hòa Bình đã xây dựng 45 OTC định vị (2001-2004), dưới 10 trạng thái thảm thực vật thuộc 4 nhóm (trảng cây bụi, trảng cây bụi, rừng trồng và rừng tự nhiên). Bằng phương pháp thí nghiệm thấm nước ống vòng khuyên và các phép phân tích, tác giả đã xác định: tốc độ thấm ban đầu, tốc độ thấm nước và thời gian đạt tốc độ thấm ổn định, quá trình thấm nước, lượng nước thấm và ảnh hưởng của một số nhân tố quan trọng tới đặc trưng thấm nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy đất dưới các trạng thái rừng ở địa bàn nghiên cứu có tốc độ thấm nước cao, tốc độ thấm nước ban đầu từ 6,7 - 15,2 mm/phút, tốc độ thấm nước ổn định từ 2,5 - 8 mm/phút. Tốc độ thấm nước của đất có liên quan chặt chẽ với độ xốp, độ dày và độ ẩm của tầng đất. Tác giả đã mô phỏng quá trình thấm nước của đất rừng bằng mô hình Horton và mô hình Phillip, trong đó mô hình Phillip mô tả quá trình thấm nước tốt hơn.

Nhìn chung, nghiên cứu về khả năng thấm nước của đất ở nước ta thực hiện theo 3 hướng. Thứ nhất, sử dụng mưa tự nhiên, theo cách này một số tác giả đo đồng thời ba yếu tố lượng mưa, dòng chảy bề mặt và bốc thoát hơi nước. Lượng nước thấm lúc này được tính là hiệu số giữa lượng mưa và dòng chảy mặt với bốc thoát hơi. Hướng tiếp theo là sử dụng mưa nhân tạo, lượng nước thấm lúc này cũng được tính bằng hiệu số giữa lượng nước cung cấp và lượng nước chảy bề mặt. Hướng thứ ba chính là sử dụng vòng đo thấm.

Nghiên cứu theo hướng thứ nhất có ưu điểm là phản ánh đúng ảnh hưởng của lượng mưa tới lượng nước thấm của đất. Tuy nhiên khi thực hiện gặp nhiều khó khăn. Bởi lẽ nếu muốn kết quả chính xác thì số liệu phải được thu thập ngay sau khi mưa, mà điều này đôi khi không đơn giản. Hơn nữa, số liệu chỉ chính xác khi vũ kế hoặc vũ kí được đặt ngay tại điểm đo thấm, trong khi đó việc giữ gìn, bảo quản tại hiện trường các thiết bị này gặp không ít khó khăn. Mặt khác, bố trí thí nghiệm theo cách này khá bị động về thời gian.

Khác với các nước tiên tiến trên thế giới, ở Việt Nam việc sử dụng thiết bị mưa nhân tạo trong nghiên cứu về thủy văn rừng nói chung và nghiên cứu về tính thấm của đất nói riêng chưa thực sự phổ biến.

Sử dụng vòng đo thấm hay còn gọi là ống vòng khuyên là cách phổ biến trong nghiên cứu khả năng thấm nước của đất tại Việt Nam.

1.2.2.1.2. Khả năng giữ  nước của đất

          Nghiên cứu vai trò giữ nước ở nước ta được bắt đầu vào những năm 1970 và đẩy mạnh vào đầu những năm 1990, tuy vậy đây vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ và chưa được nghiên cứu nhiều.

          Theo Hoàng Văn Thế (1986) thì khả năng bốc hơi vật lý là khả năng bốc hơi từ đất trần còn gọi là bốc hơi khoảng trống, nó phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết, địa hình. (Nguyễn Viết Phổ, 1992)[18].

          Một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến vai trò điều tiết nước của rừng, ảnh hưởng của kiểu thảm thực vật rừng tới việc thay đổi chế độ dòng chảy mặt tại các lưu vực và ảnh hưởng đến lượng nước của sông ngòi như công trình các vấn đề thủy văn và rừng nhiệt đới (Nguyễn Viết Phổ, 1992)[18], vài nhận xét về dòng chảy kiệt qua tài liệu nghiên cứu thực nghiệm và sử dụng tài liệu thực nghiệm thủy văn để phân tích và mô hình hóa quá trình dòng chảy. Những nghiên cứu này cho thấy vai trò điều tiết nước đặc biệt hữu hiệu của thảm thực vật rừng, đặc biệt là việc cung cấp nước cho sông suối vào mùa khô. Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự đã dựa vào mật độ thấm, thoát nước và sự thoái hóa của các loại đất để cho điểm và đánh giá vai trò của nhân tố ảnh hưởng tới xói mòn và dòng chảy (Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự, 1996)[14].

          Công trình nghiên cứu ở Tứ Quận, Tuyên Quang của bộ môn khí tượng thủy văn rừng (Phạm Văn Điển, 2006)[3] tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu lượng nước chảy bề mặt và lượng đất xói mòn dưới tán rừng bồ đề trồng thuần loài đều tuổi trong khoảng thời gian 3 năm (1974 - 1976).

Theo Hoàng Văn Thế (1986) khả năng bốc hơi vật lý là khả năng bốc hơi từ đất trần còn gọi là bốc hơi từ đất trần còn gọi là bốc hơi khoảng trống, nó phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết, địa hình (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10].

Lê Đăng Giảng và Nguyễn Thị Hoài Thu đã tổng kết kết quả nghiên cứu về khả năng giữ nước, điều tiết dòng chảy của rừng thứ sinh hỗn giao lá rộng tại núi Tiên, Hữu Lũng, Lạng Sơn (Nguyễn Thị Thúy Hường, 2009) [10]

          Theo Trần Kông Tấu, Ngô Văn Phụ, Hoàng Văn Huầy khả năng giữ nước của đất có quan hệ chặt chẽ với thành phần cơ giới đất. Đất càng có thành phần cơ giới nặng thì khả năng giữ nước và độ trữ ẩm cực đại càng lớn. (Trần Kông Tấu và cộng sự, 1986) [20].

 Theo thứ tự có thể xếp loại khả năng giữ nước của loại đất chính ở Việt Nam như sau:

          Ferralsols > Acrisols (trên gơnai) > Acrisols (trên phù sa cổ)

          Sự vận động ẩm trong đất chưa bão hòa đã được Phạm Thịnh và Nguyễn Quang Kim mô phỏng bằng phần mềm Reproduce. Phần mềm này đã mô phỏng được sự biến đổi độ ẩm đất trong đất trồng cây theo phương thẳng đứng. Kết quả đã đưa ra được phương trình cân bằng nước trong mỗi lớp đất:

          Qi.∆t - (E + Ti) = ∆θi - hi (i = 1)

          (qi-1 - qi). ∆t + Ti. ∆t = θi - hi (i = 2N)

          Phần mềm trên đã kể đến nhiều yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình biến đổi độ ẩm trong đất như đặc tính vật lý của đất, loại cây trồng và thời kỳ sinh trưởng, cường độ thoát hơi nước và chiều sâu mực nước ngầm (Nguyễn Thị Bích Ngọc, 2005) [17].

          Ngoài những công trình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thấm và giữ nước của đất rừng, còn có một số các công trình nghiên cứu các biện pháp nâng cao khả năng giữ nước của đất rừng.

          Năm 1997, kết quả nghiên cứu của Phùng Văn Khoa về đặc điểm thủy văn rừng thông qua đuôi ngựa (Pinus massaniana) tại núi Luốt, Xuân Mai - Hà Tây đã đi đến một số nhận xét sau: (1) Lượng nước bốc hơi từ mặt  đất biến động từ 30 - 35%, phụ thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm không khí dưới tán rừng. (2) Lượng nước chảy bề mặt chiếm từ 3 - 5% và phụ thuộc chặt chẽ vào độ che phủ của cây bụi thảm tươi. (3) Lượng nước còn lại trong đất chiếm xấp xỉ 10 - 15%. (Phùng Văn Khoa, 1997) [11].

          Một số nghiên cứu cho rằng khi độ ẩm đất lớn thì bốc hơi chủ yếu là nước liên kết lỏng của đất, năng lượng để bốc hơi một đơn vị thể tích nước xấp xỉ bằng năng lượng bốc hơi một đơn vị thể tích trên mặt thoáng tự do. Ngược lại khi độ ẩm giảm thì lượng nước bốc hơi cũng giảm theo cho đến khi độ ẩm đất giảm đến trị số cây héo thì lượng bốc hơi thực tế trở lên không đáng kể nữa (thường dưới 1 mm/ngày). Dựa vào kết quả nghiên cứu trên người ta đã xây dựng công cụ để dự báo được lượng nước bốc hơi thực tế tương ứng với các trị số ẩm khác nhau trong đất. Điều này cho phép việc tính toán chế độ tưới cho hoa màu và cây công nghiệp.

          Phạm Văn Điển đã sử dụng nhân tố nhiệt độ (T) và độ ẩm không khí (V) làm nhân tố chủ đạo có ảnh hưởng tới bốc hơi nước mặt đất, cho thấy nhiệt độ (T) và độ ẩm (V) là nhân tố chủ đạo ảnh hưởng tới bốc hơi mặt đất. Tác giả đã xây dựng được cả phương trình tương quan để xác định lượng hơi nước bốc hơi vật lý từ đất trong cả thời kỳ, phương trình có dạng:

          E = 0,0576 + 7,18 (T/V)2 với hệ số tương quan rất cao (r = 0,908).

          Từ đó xây dựng các phương trình tương quan để dự đoán lượng nước bốc hơi vật lý từ đất trong các thời kỳ (Phạm Văn Điển, 2006)[3].

          Điển hình là công tác nghiên cứu trên đất cát của Chi cục Thủy lợi Bình Thuận phối hợp với Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh (Vũ Văn Tuấn, 1997) trong 2 năm tại khu vực Suối Tiên và khu vực thôn Giếng. Kết quả nói chung cho thấy nước mưa là nguồn nước chính của con suối này, mỗi năm trung bình chỉ có 31,5mm nước mưa ngấm vào đất tạo thành nước ngầm, mà nước ngầm là lượng nước được tích giữ lại nhiều nhất trong đất. Nên để tăng lượng nước ngầm trong đất cần làm tăng nguồn nước mưa cho khu vực. Các nhà khoa học bằng phương hướng thiết lập các công trình thu nước rộng khắp vùng thượng lưu suối Tiên đã cho kết quả khá thành công. Kết quả là khu vực sát lòng suối Tiên về phía hạ lưu tăng mực nước ngầm từ 2 - 6m (trong 3 năm) và 3 - 7,5 m (sau 10 năm). Hay kết quả nghiên cứu tại khu vực hai thôn (Giếng Triền và Hồng Phong) cũng bằng phương án bổ sung nguồn nước mưa trên toàn khu vực cụ thể là xây dựng hệ thống liên hồ gồm 33 hồ trữ nước, dung tích 4500m3/hồ và trồng 157km cỏ Vetiver (là loại cây trồng mới có nhiều ưu điểm, có thể sinh trưởng trên mọi loại đất và có bộ rễ mọc thẳng xuống mặt đất ít nhất là 3m, làm thành "Đường chắn ngầm sinh học ") đã làm giảm lượng nước mặt chảy đi và tăng nguồn nước ngầm của khu vực (dự kiến, sau 9 năm mực nước ngầm của vùng này sẽ dâng cao thêm từ 3,5 - 8m).

          Gần đây nhất, Phạm Văn Điển đã nghiên cứu khả năng giữ nước của một số thảm thực vật rừng ở vùng phòng hộ hồ thủy điện Hòa Bình. Kết quả nghiên cứu cũng đã đề cập tới khả năng thấm và giữ nước của đất rừng (Phạm Văn Điển, 2006) [3].

          Đất dưới các trạng thái rừng ở địa bàn nghiên cứu có tốc độ thấm nước cao, tốc độ thấm nước ban đầu từ 6,7 - 15,2 mm/phút, tốc độ thấm nước ổn định từ 2,5 - 8,0 mm/phút. Tốc độ thấm nước có liên hệ chặt với độ xốp, độ dày và độ ẩm đất.

1.2.2.2. Tồn tại nghiên cứu

          Vì lý do khác nhau mà cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ về đặc trưng thấm và giữ nước của đất rừng ở Việt Nam. Phần lớn vấn đề này mới được thực hiện ở mức độ nhất định, thường được gắn liền với nghiên cứu xói mòn đất và tập trung nhiều ở rừng tự nhiên, mức độ định lượng còn chưa cao. Một số tồn tại chính như sau:

          - Thiếu những công trình nghiên cứu theo hướng phát hiện quy luật và giải thích cơ chế và định lượng những quy luật đó bằng các công cụ toán học phù hợp.

- Phương pháp và thiết bị nghiên cứu còn chưa được cải tiến, còn lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới (dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006 [10]). Vì vậy, việc cải tiến phương pháp và thiết bị nghiên cứu phù hợp và khả thi trong điều kiện mưa nhiệt đới là cần thiết.


Tính cấp thiết

Trong những năm qua, việc quản lý và sử dụng bền vững đất canh tác đặc biệt là vùng đất dốc chưa được quan tâm đúng mức và vẫn đang là bài toán làm đau đầu các nhà quản lý. Hàng trăm hecta rừng tự nhiên bị tàn phá hàng năm làm cho diện tích đất trống đồi núi trọc ngày càng tăng hoặc thay vào đó là những diện tích rừng trồng kém chất lượng, khả năng bảo vệ đất thấp. Dòng chảy mặt và xói mòn đất đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng, một bài toán khó giải cho các nhà hoạch định chính sách, quy hoạch và sử dụng nguồn tài nguyên đất nước. Hiện tượng xói mòn đang xảy ra mạnh, mỗi năm hàng nghìn tấn đất mầu mỡ bị xói mòn rửa trôi chảy ra các con sông suối và về hạ nguồn. Thực trạng này không những làm cho đất bị mất dần khả năng canh tác.

Trong sản xuất Nông Lâm nghiệp, đất đai là công cụ sản xuất vô cùng quý giá và không thể thay thế, không chỉ mang lại cho con người các sản phẩm trồng trọt trên chúng mà còn ảnh hưởng trực tiếp và có tính quyết định đến cuộc sống của con người thông qua việc ảnh hưởng đến các yếu tố như năng suất cây trồng, các hiện tượng thời tiết như hạn hán, lũ lụt, sạt lở đất...

 Huyện Định Hoá có tích rừng tự nhiên năm 2000 là 18.007 ha đến năm 2005 chỉ còn 17.185 ha. Diện tích rừng có xu hướng giảm mạnh. Hậu quả là năm 2008 vừa qua ở Huyện Định Hoá đã xảy ra các trận lũ rừng lớn gây thiệt hại trầm trọng về tài sản cũng như tính mạng của người dân nghèo mới đây. Việc nghiên cứu về khả năng thấm và giữ nước của đất rừng để nhằm hạn chế xói mòn và dự báo lũ rừng chưa được nghiên cứu. Diện tích đất trống đồi núi trọc có xu hướng gia tăng, sản xuất nông nghiệp năng xuất thấp do đất bị xói mòn trầm trọng. Dưới góc độ thủy văn rừng, đất rừng là kho tích giữ nước to lớn và quan trọng. Giữ nước trong đất là tiền đề cho giữ đất tại chỗ. Lượng nước giữ trong đất dù bị bốc hơi vật lý hay thoát hơi nước qua thực vật để hình thành sinh khối, đều là lượng nước hữu ích. Điều đó khẳng định rằng, khả năng thấm và giữ nước của đất rừng có tầm quan trọng đặc biệt đối với lĩnh vực quản lý nguồn nước. Mặt khác, địa điểm nghiên cứu của công trình là đất rừng ở huyện Định Hoá đây là khu vực luôn tiềm ẩn nguy cơ suy thoái đất và nước nghiêm trọng. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển rừng để cung cấp ổn định nguồn nước, ngăn cản quá trình xói mòn, kiểm soát mực nước Sông Chu, sông Công và sông Đu là cực kỳ quan trọng. Do vậy, vấn đề thấm và giữ nước của đất đã được lựa chọn làm đối tượng chính của công trình nghiên cứu này. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cu kh năng thm và gi nước tim tàng ca đất rng nhm góp phn hn chế xói mòn và d báo lũ rng cho huyn Định Hoá, tnh Thái Nguyên"

Mục tiêu

2.1.Mục tiêu chung

Cung cấp cơ sở khoa học cho việc đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện khả năng thấm, giữ nước của đất rừng, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ nguồn nước của rừng nhằm hạn chế xói mòn và dự báo lũ rừng

2.2. Mục tiêu cụ thể

+Xác định được khả năng thấm, giữa nước của đất rừng;

+ Xác định được những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng giữ nước của đất dưới một số trạng thái thảm thực vật rừng khác nhau;

+ Đề xuất một số giải pháp kĩ thuật nhằm cải thiện khả năng thấm, giữ nước của đất rừng, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ nguồn nước của rừng nhằm hạn chế xói mòn và dự báo lũ rừng.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học

 - Đề tài là một bước kế tiếp phát triển các nghiên cứu khoa học trước đó trong lĩnh vực nghiên cứu khả năng thấm và giữ nước của đất rừng.

Nội dung

2.3.1. Đặc điểm lập địa khu vực nghiên cứu

- Chế độ mưa

- Địa hình

- Thổ nhưỡng

- Thảm thực vật

2.3.2. Đặc trưng thấm nước của đất rừng

- Tốc độ thấm nước ban đầu

- Tốc độ thấm nước ổn định

- Quá trình thấm nước

2.3.3. Đặc trưng giữ nước của đất

- Lượng nước bão hòa

- Lượng giữ nước hữu hiệu

- Biến động độ ẩm

2.3.4. Đề xuất một số giải pháp cải thiện khả năng thấm và giữ nước của đất rừng

Tải file "Nghiên cứu khả năng thấm và giữ nước tiềm tàng của đất rừng nhằm góp phần hạn chế xói mòn và dự báo lũ rừng cho huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên" tại đây

PP nghiên cứu

2.4. Phương pháp nghiên cứu 

2.4.1. Phương pháp thống kê, kế thừa truyền thống

          Thu thập tất cả các tài liệu hiện có liên quan. Trên cơ sở phân tích, đánh giá sẽ kế thừa những thông tin, số liệu khoa học đã có phục vụ thiết thực nội dung nghiên cứu của đề tài…

2.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa

          Áp dụng phương pháp điều tra khảo sát, đo đạc, quan sát và phỏng vấn nhằm xác định rõ hiện trạng thảm thực vật, địa hình và tính chất vật lý của đất rừng.

2.4.3. Phương pháp đánh giá  nhanh

          Được sử dụng trong khi khảo sát thực địa nhằm phân tích đánh giá ở ngoài thực tế thông qua khảo sát, đo đạc hiện trường.

2.4.4. Phương pháp chuyên gia

          Trao đổi, xin ý kiến chuyên gia về chuyên mônn quản lý của các đơn vị chức năng có liên quan.

2.4.5. Phương pháp đo đạc lấy mẫu ngoài thực địa

          Khảo sát, lấy mẫu phân tích đánh giá hiện trạng chất lượng đất bằng cách đào phẫu diện.

Quy cách đào phẫu diện:

Trước khi đào cần chọn vị trí, đánh dấu và số thứ tự lên bản đồ. Hướng phẫu diện quay dọc theo hướng đông tây, mặt thành phẫu diện khảo sát phải hướng về phía mặt trời. Đối diện với mặt phẫu diện là các bậc để lên xuống. Kích thước phẫu diện tùy thuộc vào mục đích của các phẫu diện định đào. Chiều rộng phẫu diện khoảng 0,80 - 0,9 m, chiều dài khoảng 1,20 - 1,50 m. Chiều sâu thì tùy đối tượng mà quy định. Đất đào lên phải đổ hai bên phẫu diện, đất trên mặt để riêng một bên. Sau khi mô tả và lấy mẫu xong nên lắp lại theo trạng thái cũ. Không được đứng giẫm ở phía trên bề mặt khảo sát vì sẽ làm mất đi trạng thái tự nhiên của đất, hủy hoại cây cỏ, cũng không được đổ đất trên đấy vì chúng ta còn phải quan sát thực bì và đặt các thí nghiệm về lý tính nếu cần. Mặt phẫu diện phải thẳng: dùng mai hoặc xẻng vạt, tránh áp lưỡi mai miết đất làm mất trạng thái tự nhiên của đất. Đối diện với mặt phẫu diện nên đào dạng bậc thang để tiện lên xuống khảo sát.

Sau khi đào xong phẫu diện phải tiến hành khâu mô tả và ghi chép đầy đủ vào sổ tay thực địa số liệu điểm quan sát, vị trí của phẫu diện, đặc điểm của tự nhiên xung quanh, cố gắng nêu cho rõ đặc điểm ảnh hưởng của các nhân tố đó đến sự hình thành thổ nhưỡng. Mọi tầng đất cần mô tả chi tiết các tính chất sau: màu sắc, độ chặt, độ xốp, rễ cây, chất xâm nhập, chất mới sinh, độ dày tầng đất, thành phần cơ giới…

2.4.6. Phương pháp bố trí thí nghiệm

Số lượng và cách lựa chọn điểm đo là yếu tố ảnh hưởng lớn đến độ chính xác của các kết luận thống kê, đảm bảo sự phù hợp giữa kết quả nghiên cứu với thực tiễn. Số lượng điểm đo càng nhiều, số lần thu mẫu càng lớn thì độ tin cậy của các kết luận càng cao.

Đề tài nghiên cứu sẽ lập 9 ô tiêu chuẩn điển hình (OTC) phân bố ở khu vực nghiên cứu, gồm đất rừng tự nhiên IIA là 3 OTC, Trảng cây bụi là 3 OTC và đất rừng trồng là 3 OTC. Dựa trên kết quả khảo sát thực địa đề tài sẽ bố trí ô tiêu chuẩn có diện tích là 500 m2 (25m x 20m).

Mẫu đất được thu thập tổng hợp tại 9 điểm phân bố hệ thống trên ô tiêu chuẩn. Độ sâu lấy mẫu đất lần lượt là: 0-20 cm, 20-40 cm. Mẫu đất sau khi được lấy đã cho ngay vào dụng cụ riêng để bảo quản và đem về hong khô và phân tích.

2.4.7. Phương pháp thu thập số liệu

2.4.7.1. Số liệu sơ cấp

* Xác định tính chất vật lý đất

Đề tài sẽ nghiên cứu độ ẩm, dung trọng, tỷ trọng và độ xốp của đất. Mẫu đất được lấy bằng ống dung trọng để xác định đồng thời các chỉ tiêu trên. Mỗi vị trí đo thấm lấy một mẫu đất (trước khi đo thấm, gần điểm đo thấm) bằng ống dung trọng (kích thước: cao 10 cm, đường kính trong 5 cm).

* Điều tra đặc trưng thấm nước của đất

Tốc độ thấm nước của đất được xác định bằng phương pháp sử dụng ống vòng khuyên. Tại mỗi ô thí nghiệm đặt một cặp ống lồng vào nhau ở vị trí điển hình, đường kính bên trong ống nhỏ là 20 cm, đường kính bên trong ống to là 30 cm, chiều cao các ống là 35 cm. Các ống được khắc vạch ở phía trong. Tại vị trí nghiên cứu khả năng thấm, đóng vòng sắt sâu xuống 20 cm.

Dùng bình đong nước tưới nước từ từ vào trong vòng khuyên, luôn giữ một lớp nước đầy 5 cm phía trên tầng đất mặt.

Sau thời gian 1 phút tiếp tục đổ nước vào trong vòng khuyên, căn cứ vào lượng nước khởi đầu và sau khi tiếp nước trong ống đong để xác định nước đã thấm.

Thí nghiệm được kéo dài cho đến khi nước thấm ổn định thì kết thúc. Tốc độ thấm nước được xác định theo từng phút (cm­3/phút) cho đến khi nước thấm ổn định.

 

Hình 2.1. Vòng đo thấm

2.4.7.2. Số liệu thứ cấp

- Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu, số liệu thứ cấp

+ Thu thập, sử dụng tài liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, … Bằng cách điều tra các số liệu ở các văn bản, tạp chí, internet...

- Phương pháp tổng hợp và phân tích các tài liệu, số liệu thứ cấp

Sau khi thu thập các tài liệu và số liệu thứ cấp cần chọn lọc ra các số liệu cần thiết để đưa vào đề tài. Vì các số liệu, tài liệu thu thập được từ rất nhiều nguồn khác nhau, những thời điểm khác nhau do đó có sự khác nhau về độ phân tích và độ chính xác.

2.4.8. Phuơng pháp phân tích trong phòng thí nghiệm

Các chỉ tiêu: Tỷ trọng, dung trọng, độ xốp, độ ẩm của đất được xác định theo phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm.

-   Tỷ trọng đất (D) là tỷ số trọng lượng (gam) của một đơn vị thể tích đất (cm3) ở trạng thái rắn, khô kiệt, các hạt đất xếp sít vào nhau so với trọng lượng của một khối nước có cùng thể tích. Tỷ trọng đất phụ thuộc vào thành phần khoáng vật, thành phần hóa học của đất, đất càng nhỏ càng mịn tỷ trọng càng lớn. Nếu trong đất có nhiều mùn và hợp chất hữu cơ thì tỷ trọng nhỏ.

Xác định tỷ trọng theo (phương pháp picnomet) gồm các bước sau:

Bước 1: Xác định thể tích picnomet: picnomet sạch được sấy khô ở nhiệt độ không quá 600C. Cùng với nút đậy, cân trên cân phân tích có độ chính xác 0,001g, ghi trọng lượng cân được.

Dùng nước đun sôi để nguội, đổ đầy picnomet, tới mức sao cho sau khi đậy nút chỉ tào ra vài giọt (qua mao quản của nút). Lau bình một cách cẩn thận để làm sao phía dưới và bên trong lỗ mao quản không có không khí đọng. Ghi nhiệt độ nước tại thời điểm xác định.

Đặt cẩn thận picnomet lên cân phân tích có độ chính xác 0,001g, ghi trọng lượng của picnomet có chứa đầy nước.

Thể tích picnomet được tính theo công thức:

V = (a1 – a)/D

V: Thể tích picnomet (cm3)

a1: Khối lượng picnomet + nước (g)

a: Khối lượng picnomet khô (g)

D: Khối lượng riêng của nước ở nhiệt độ đã xác định (g/cm3)

Bước 2: Xác định tỉ trọng đất:

Cân 10g đất khô không khí đã rây qua rây 1 – 2 mm.

Rót ½ lượng nước ra cốc và dùng phễu cho đất đã chuẩn bị vào bình. Phễu tráng bằng nước cất. Bình picnomet có đất và nước được đặt lên bếp cát hoặc bếp điện có khay cát đun nóng 1/2  giờ, chỉ cho sôi nhẹ để đẩy không khí ra khỏi đất. Sau khi đun sôi bình  picnomet để nguội trong phòng, thêm nước cất vào cho tới vạch, đậy nút sao cho nước được chứa đầy lên mao quản của nút. Sau đo đem cân. Tỉ trọng của đất được tính theo công thức:

D = P/(P + P1 – P2)

Trong đó :

d: tỉ trọng thể rắn

P: Khối lượng đất khô lấy để phân tích (g)

P1: Khối lượng bình picnomet có nước (g)

P2: Khối lượng picnomet có nước và đất (g)

Tính đất khô không khí sang đất khô kiệt (tuyệt đối) theo công thức:

P = (P0 * 100)/(100+a)

Lấy P0: Khối lượng đất khô không khí

a: Hàm lượng nước tính bằng % so với đất khô

-   Dung trọng đất (d) là trọng lượng đất khô (gam) ở trạng thái tự nhiên của một đơn vị thể tích đất (cm3) sau khi sấy khô kiệt.

Dung trọng phụ thuộc vào thành phần khoáng vật, hàm lượng chất hữu cơ và kết cấu đất. Đất giàu hữu cơ và tơi xốp thì dung trọng lớn, dung trọng tăng theo hầu hết là theo chiều sâu của đất.

d= M / V

Trong đó: d _ dung trọng đất (g/cm3)

  M_ trọng lượng đất khô ở trạng thái tự nhiên (g)

  V_ Thể tích ống trụ (cm3)

-   Độ xốp của đất: là tỷ lệ % các khe hở trong đất so với thể tích đất.

Độ xốp của đất được xác định thông qua tỷ trọng và dung trọng của đất

Độ xốp P % được tính theo công thức:

P% = (1-d/D)x100

Trong đó:    D là tỷ trọng (g/cm3)

                    d là dung trọng (g/cm3)

- Độ ẩm đất (%): Xác định độ ẩm đất theo các bước sau

Bước 1: Cân trọng lượng hộp nhôm, được W1 (g)

Bước 2: Cân trọng lượng đất và hộp nhôm, được W2 (g)

Bước 3: Sau khi sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ 1050c , đem ra để nguội cân được trọng lượng W3 (g)

Độ ẩm tương đối A0 tương đối % = [(W2 - W3) / (W2 - W1)]. 100

Độ ẩm tuyệt đối A0 tuyệt đối % = [(W2 - W3) / (W3 - W1)]. 100

- Cường độ mưa bình quân (IBQ, mm/h) được xác định bằng tỉ số giữa lượng mưa (P, mm) và thời gian mưa (t, giờ):

IBQ (mm/h) = P/t

- Đặc điểm phân bố mưa được xác định thông qua các chỉ tiêu: Phân bố số ngày mưa theo tháng trong năm, phân bố số trận mưa theo thời gian mưa, phân bố lượng mưa trong năm. Những chỉ tiêu này được biểu diễn bằng phương pháp lập bảng kết hợp với vẽ biểu đồ.

- Điều tra khả năng giữ nước của đất

* Biến động độ ẩm:

-  Theo chiều thẳng đứng: Trong mỗi ô thí nghiệm chọn 1 vị trí đại diện điển hình tiến hành đào sâu xuống 40 cm, lấy mẫu đất để xác định độ ẩm theo các vị trí 0-20cm, 20-40cm bằng phương pháp sấy. Tổng số điều tra 9 vị trí. Kết quả điều tra được, ghi vào mẫu biểu.

* Xác định sức hút ẩm tối đa: Đất phơi khô, nghiền nhỏ, qua rây 0,25 mm, cân từ 5-10gam cho vào chén thủy tinh đã sấy. Tốt nhất là dùng loại chén có đường kính 5cm, cao 3cm, có nắp đậy. Chén có đem cân và đặt vào bình hút ẩm, đáy bình có chứa axit sunfuric 10% (ước chừng 100-300cc). Tùy số lượng cho vào bình hút ẩm mà lấy lượng axit sunfuric cho vừa phải (cứ 1gam đất lấy 2cc H2SO4 10%. Không nên cho axit quá đầy.

Trên mặt axit tạo ra không khí chứa đầy hơi nước (gần 100% độ ẩm tương đối). Trong không khí đó đất sẽ hút hết hơi nước.

Bình hút ẩm (trong đựng chén có đất) cần bôi vadơlin trên miệng và đậy nắp lại. Dùng bơm (chân không) hút hết không khí trong bình ra để cho nắp bình dính chặp vào với bình. Sau đó đặt vào chỗ tối có nhiệt độ ổn định.

Sau 3 ngày đem ra cân các chén trên, ghi số liệu vào sổ. Sau khi tiến hành lần 1, đặt chén trở lại bình hút ẩm, sau 3 ngày nữa cân lại. Thường lần thứ 2 khối lượng tăng lên. Tiếp tục làm như vậy đến khi đạt kết quả gần cố định (có thể khác nhau số lẻ thứ 3 là được). Cuối cùng đem các chén đó sấy đến trọng lượng cố định ở 1050C. Thời gian bão hòa như vậy khoảng 1 tháng. Tổng số mẫu điều tra là 9 mẫu.

Nước mất khi sấy tính ra phần trăm so với khối lượng đất khô cho ta sức hút ẩm tối đa. Từ sức hút ẩm tối đa này bằng cách nhân với hệ số 1,5 ta tính được độ ẩm cây héo.

Lượng nước giữa sức chứa ẩm đồng ruộng và độ ẩm cây héo là lượng nước hữu hiệu mà cây có thể sử dụng được.

- Độ ẩm cây héo bình quân của đất rừng được xác định bằng 1,5 lần sức hút ẩm tối đa của đất.

- Độ xốp mao quản được tính bằng công thức:

Xmq % = % độ ẩm đồng ruộng + % độ ẩm cây héo

- Độ xốp ngoài mao quản: Xnmq % = X% - Xmq

- Lượng nước tích giữ trong các khe hổng mao quản của đất rừng được tính toán theo độ dầy tầng đất, dựa trên số đo bình quân về độ xốp của đất: Imq = Hd * Xmq.

- Lượng nước tích giữ trong các khe hổng ngoài mao quản của đất rừng được tính toán theo độ dầy tầng đất và số đo bình quân về độ xốp ngoài mao quản của đất: Inmq = Hd * Xnmq

- Các phương trình tương quan được thiết lập theo hướng dẫn của giáo trình “Thống kê toán học trong lâm nghiệp” của Nguyễn Hải Tuất và Ngô Kim Khôi (1996).

2.4.9. Phương pháp xử lý số liệu

Ngoài ra để so sánh khả năng thấm nước của đất ở các trạng thái rừng khác nhau và các mối quan hệ tương quan giữa các chỉ tiêu vật lý đất ảnh hưởng đến khả năng thấm nước của đất đề tài sử dụng phương pháp phân tích phương sai bằng phần mềm SAS.

 

Hiệu quả KTXH

3.1. Về kinh tế xã hội

         Sự biến đổi khí hậu đang de dọa nghiêm trọng đến lợi ích sống còn của nhiều dân tộc trên khắp hành tinh. Con người đang phải đối mặt với những biến đổi khí hậu như: dịch bệnh, đói nghèo, mất nơi ở, thiếu đất canh tác, xói mòn, sạt lở, lũ rừng, lũ quét…Việc nghiên cứu về khả năng thấm và giữ nước của đất rừng để nhằm hạn chế xói mòn và dự báo lũ rừng ít được nghiên cứu. Diện tích đất trống đồi núi trọc có xu hướng gia tăng, sản xuất nông nghiệp năng xuất thấp do đất bị xói mòn trầm trọng. Dưới góc độ thủy văn rừng, đất rừng là kho tích giữ nước to lớn và quan trọng. Giữ nước trong đất là tiền đề cho giữ đất tại chỗ. Lượng nước giữ trong đất dù bị bốc hơi vật lý hay thoát hơi nước qua thực vật để hình thành sinh khối, đều là lượng nước hữu ích. Điều đó khẳng định rằng, khả năng thấm và giữ nước của đất rừng có tầm quan trọng đặc biệt đối với lĩnh vực quản lý nguồn nước. Mặt khác, địa điểm nghiên cứu của công trình là đất rừng ở huyện Định Hoá đây là khu vực luôn tiềm ẩn nguy cơ suy thoái đất và nước nghiêm trọng. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển rừng để cung cấp ổn định nguồn nước, ngăn cản quá trình xói mòn, kiểm soát mực nước Sông Chu, sông Công và sông Đu là cực kỳ quan trọng.việc nghiên cứu về tính thấm và giữ nước của đất rừng luôn là hướng đi đúng đắn trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi trường. Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học quan trọng góp phần cho các nhà quản lý môi trường hoạch định các chính sách quản lý và các biện pháp phòng ngừa những sự cố môi trường có thể xảy ra.

3.2. Về khoa học – công nghệ :       Kết quả của đề tài sẽ bổ sung phương pháp luận cho những nghiên cứu về tính thấm và gữ nước của đất rừng và các mô hình dự báo lũ, dự báo xói mòn, quản lý nguồn nước.

 3.3. Về thông tin

          Các kết quả nghiên cứu của đề tài đã bổ sung và làm phong phú thêm nguồn thông tin và tư liệu khoa học. Cụ thể đề tài đã đăng được 02 bài báo:

1-    Nghiên cứu khả năng thấm nước của đất rừng tại xã Bộc nhiêu, Huyện Định Hóa, Thái Nguyên, Tạp chí khoa học và công nghệ -ĐHTN, Tập 86, số 10-2011, T 149-153.

2-    Nghiên cứu khả năng thấm và giữ nước của đất rừng trường hợp nghiên cứu tại huyện Định hóa, Thái nguyên. Tạp chí NN&PTNT, năm 2011

3.4. Về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực

          Việc thực hiện đề tài tạo điều kiện quan trọng cho 01 học viên cao học và 01 sinh viên tham gia và hoàn thành luận án, luận văn và chuyên đề tốt nghiệp của mình.

          Nâng cao năng lực, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu cho các thành viên tham gia đề tài.

         

ĐV sử dụng

Huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên

STT Tên đơn vị Người đại diện
STT Tên người tham gia

  BÌNH LUẬN BẠN ĐỌC(0)

  GỬI BÌNH LUẬN

Họ tên*
Email
Tiêu đề(*)
Nội dung*